Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 4

 Trong nền văn học phương Đông không thiếu những tác phẩm lên án chiến tranh phong kiến phi nghĩa qua hình ảnh người chinh phụ chờ chồng. Đó có thể là tác phẩm Xuân Tứ của Tiên thi Lý Bạch, có thể Binh xa hành của Đỗ Phủ… nhưng có lẽ hiếm có tác phẩm nào sâu sắc và đầy đủ như Chinh phụ ngâm. Đặng Trần Côn có lẽ đã vượt mặt cả những thi nhân nổi tiếng như Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Đỗ Phủ, Lý Thương Ẩn,… trong thể loại này, khi ông không chỉ khắc họa được sự tàn ác, phi lý của chiến tranh phong kiến, mà còn cả sự băn khoăn, day dứt, bối rối giữa cái chữ trung và chữ tình, sự khắc khoải, mỏi mệt trong nỗi chờ mong và những tháng ngày lo lắng cứ mãi kéo dài không có điểm dừng của người phụ nữ cô đơn nơi phòng khuê.

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”

            Như trong Kiều, Nguyễn Du đã từng để Kiều nói câu ‘phận gái chữ tòng’, hay như trong Tân Hôn Biệt có câu ‘Thệ dục tùy quân khứ(1)’, đã là phận vợ, dù đến chân trời góc bể cũng muốn theo chồng. Nhưng ‘Hình thế phản thương hoàng(2)’, mà ‘Phụ nhân tại quân trung/ Binh khí khủng bất dương(3)’, người vợ có chồng đi lính lại chỉ có thể ở lại nhà. Có chồng, nàng pha trà cùng quân đối ẩm, nhưng quân nay đi rồi, nàng đành ‘dạo hiên’. Nàng đếm từng bước chân, tựa như đếm từng ngày chồng đi, đếm từng ngày nỗi nhớ thương đong đầy trong cách trở. ‘Có khoảng không gian nào đo chiều dài nỗi nhớ(4)’ đâu! Hết dạo hiên, nàng lại kéo rèm. Kéo rèm xuống, nàng như nhác thấy bóng chồng khuất đi, vội kéo rèm lên, hóa ra chỉ là tình cảm và ánh nước trong mắt lùa dối nàng. Nhưng khi nàng hạ rèm xuống, nàng lại vẫn thấy mọi chuyện diễn ra như cũ, và rồi nàng cứ vô thức lặp đi lặp lại một hành động ấy… Người đời hận ‘Quân sinh ta chưa sinh/ ta sinh quân đã lão/ Quân hận ta sinh trì/ Ta hận quân sinh tảo(5)’, nhưng có lẽ chỉ những người có duyên có phận lại chẳng được gần nhau như thế mới biết được nỗi sợ của việc không được cùng kẻ kết duyên ‘thượng cùng bích lạc hạ hoàng tuyền (6)’.

            Hiên vắng không phải vì không có người, mà vì người quan trọng nhất không ở bên nàng.

“Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng
Đèn có biết giường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.”

            Giữa thời buổi loạn lạc, nhà có người đi lính, ‘gia thư để vạn kim(7)’, họa có mấy khi có người về báo tin chiến trận? Người vợ nghe tin thắng trận cũng lo sợ, mà nghe tin thua trận cũng lo sợ, vì ‘Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?(8)’. Không nghe tin chồng nàng chỉ có thể chờ đợi trong lo sợ, nàng như chết dần chết mòn vì sự bi thiết trong lòng, sự bi thiết đến từ nỗi chờ mong trong cô lẻ, triền miên. Đến cả loài chim – loài có đôi cánh, có thể dang rộng bay khắp thiên hạ, cũng chẳng biết tin, há một người phòng khuê như nàng lại có thể biết tin? Dù cho ‘Hoàng điểu tọa tương bi(9)’, ‘Biệt li chim cũng vì người xót xa(10)’, nhưng nàng vẫn chẳng có người đồng cảm, tựa như Bá Nha mất đi Tử Kì, Trang Tử mất đi Huệ Thi. ‘Lệ rơi khêu ngọn đèn(11)’, nàng chong đèn suốt đêm, không ngủ được mà cũng chẳng dám ngủ – có lẽ chồng nàng sẽ về, và nàng không muốn chậm trễ đón chàng. Nhưng gà gáy canh năm, trời sáng rồi, mà bóng chàng vẫn cứ biệt tăm. ‘Cành liễu ai người vin?(12)’, chỉ có hòe phất phơ in bóng lên tường khi mặt trời của ngày mới đến. Ai bảo mặt trời là hi vọng, ai bảo ánh sáng là nguồn sống? Nàng chỉ biết, một ngày đã lại qua, số ngày chia cách lại tăng thêm một, nỗi nhớ trong nàng lại dâng đầy, lo sợ cũng như nước lũ mà phá ra.

            Kinh Thi có câu ‘Nhất nhật bất kiến như tam thu hề(13)’, Nguyễn du gói gọn lại thành ‘Ba thu dọn lại một ngày dài ghê’, đối với người chinh phụ, ‘khắc giờ’ thì ‘đằng đẵng như niên’, mà ‘mối sầu’ thì ‘dằng dặc tựa miền biển xa’. Hay cho một câu cảnh còn người mất! Mùi hương vẫn còn đó, vấn vít giống như ngày chàng còn tại ‘Hương diệc cánh bất diệc(14)’, nhưng chỉ tiếc ‘Nhân diệc cánh bất lai(15)’. Gương đồng vẫn sáng, nàng vẫn soi gương, điểm trang mỗi ngày, vì sợ ‘Huống nãi cuồng phu hoàn(16)’. Nàng lại đánh đàn, nhưng tiếng đàn đứt đoạn, bởi nàng lo dây uyên sẽ đứt, phím loan sẽ chùng, mà nàng thì phải thốt lên câu ‘Ly loan biệt phụng kim hà tại?(17)’

“Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa
Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.”

            Mười sáu câu đầu là phần điệp khúc bằng tiếng tỳ bà chậm rãi, day dứt – bởi sự khắc khoải trong nỗi nhớ, bởi sự triền miên và vô tận – tiếng đàn ngân mãi, tựa như tiếng khóc kiềm nén của người chinh phụ trong màn đêm. Ấy không chỉ là màn đêm của bóng tối – mà còn là màn đêm của những lo lắng, sợ hãi; là màn đêm của những cô đơn, lẻ loi bị che khuất dưới ánh mặt trời ban ngày.

“Xuân phong bất tương thức
Hà sự nhập la vi?”(18)

Đông qua, xuân đến, thời gian cứ trôi đi biền biệt, ‘Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc(19)’. Nàng muốn gửi tấm lòng của mình đến trượng phu, nhưng chỉ có ‘đông phong’ len rèm the lọt vào phòng. Nàng đành gửi ‘nghìn vàng’ theo gió đến ‘non Yên’. Nhưng có lẽ cũng chẳng tơi được nơi chồng nàng, vì ‘nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời’. ‘Thiên hạ thương tâm xứ’, nỗi đau của nàng trời cũng không thấu hiểu, mà nỗi nhớ của nàng ‘đau đáu nào xong’, tựa như ‘đoạn trường thì(20)’.

“Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.”

            Không phải vì cảnh buồn nen người buồn, mà vì người buồn nên cảnh mới buồn – ‘Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ’. Người chinh phụ đã nhìn giọt sương quan ánh mắt buồn, đã nghe tiếng trùng, tiếng mưa qua nỗi nhớ thăm thẳm. Chính cái nỗi buồn trong lòng nàng đã làm nàng thêm buồn – nỗi buồn như cắt ruột gan nàng, dày xé tâm can nàng. Hình ảnh ‘sương đượm cành cây’ cũng giống như nỗi buồn bao vây lấy nàng, tiếng trùng như át đi cả tiếng mưa, ấy tựa như cái lạnh lẽo của sự cô đơn bủa vây lấy nàng.

             Nếu mười sáu câu đầu là đoạn điệp khúc khi mà nỗi nhớ thương và tâm trạng đau thương được đẩy lên đến cùng cực, thì tám câu sau này lại như một đoạn nhạc dạo trước cao trào. Tấm lòng hướng về phương xa nơi chồng đang chinh chiến chậm rãi biến nỗi cô đơn thành một nỗi đau, một nỗi đau không gì sánh được. Như một chữ ‘thiết tha’, nó mài, nó cắt vào ruột gan người đọc hệt như cách nó làm đau đớn lòng người chinh phụ.

            Có người nói: “Hạnh phúc hay bất cứ thứ gì, thường chỉ đến lúc mất đi người ta mới biết nó từng tồn tại(21)”. Với Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, chúng ta được đưa vào một không gian nhỏ hẹp – một không gian đong đầy nỗi nhớ và sự khắc khoải, sự bất bình và bối rối giữa các mối quan hệ của Nho học, sự cổ hủ và bất công của chế độ phong kiến – nơi mà những ‘dân đen thấp cổ bé họng’ không có quyền, mà chỉ có nghĩa vụ. Những người như vậy, họ đã không được hưởng hạnh phúc một giây phút nào – mà họa có đi chăng nữa – ấy cũng chỉ là phút giây ngắn ngủi tựa như khoảnh khắc tàn canh. Chúng ta bị đặt vào vị thế của những người như thế, và xúc động trước khát vọng tột cùng của họ – được sống bình đẳng, hạnh phúc và không phải chịu chia li.

(1), (2), (3) Trích Tân Hôn Biệt của Đỗ Phủ.
(4) Trích bài hát Ở hai đầu nỗi nhớ.
(5) Có nhiều giai thoại về đoạn thơ này. Có người bảo đoạn thơ là do một kỷ nữ thời Đường sáng tác, vì cách biệt tuổi tác mà không được đến với người yêu. Lại có người bảo là được khắc trên một tấm gỗ, đặt trên xác của một người cung nữ đã được khai quật. Cũng có người nói là được in viết trên một chiếc bình cổ
(6) Trích Trường hận ca của Lý Bạch.
(7), (10) Trích Xuân Vọng – Đỗ Phủ
(8) Trích Lương Châu Từ – Vương Hàn
(9), (11), (12), (16) Trích Khuê Tình – Lý Bạch
(13) Câu này có nghĩa: Một ngày không gặp tựa ba thu (quen đúng không? xD~)
(14), (15) Trích Ký viễn – Lý Bạch
(17) Trích Đại ứng kỳ – Lý Thương Ẩn
(18) Trích Xuân Tứ – Lý Bạch
(19) Trích Khuê Oán – Vương Xương Linh
(20) Mượn ý từ câu ‘Thị thiếp đoạn trường thì’ – ‘Chính là khi thiếp tái tê nỗi lòng’ của Lý Bạch trong Xuân Tứ

Popular posts from this blog

Tại sao nói đến năm 1930, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam được hình thành về cơ bản

Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về chuẩn mực đạo đức “Trung với nước – hiếu với dân” và chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”

Phân tích vai trò của chủ nghĩa Mác–Lênin đối với sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh